Thứ Năm, 18 tháng 9, 2014

Nhiều doanh nghiệp dịch vụ kế toán sẽ biến mất

Nhiều doanh nghiệp dịch vụ kế toán sẽ biến mất

(TBKTSG) - Dự thảo Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Kế toán (sau đây gọi tắt là dự thảo) đã được Bộ Tài chính trình Chính phủ và đưa ra trưng cầu ý kiến góp ý. Dự thảo chỉ sửa 10 điều của Luật Kế toán được Quốc hội thông qua năm 2003, trong đó, điều 55 về hành nghề kế toán được chia thành chín điều, từ 55a đến 55k. Nội dung bổ sung quan trọng nhất là đặt ra những điều kiện hành nghề khắt khe hơn.

Hành nghề kế toán phải tuân thủ những điều kiện khắt khe hơn. Ảnh minh họa, TL SGT
Không cần thiết và thiếu tính khả thi
Điều 55d về điều kiện cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ kế toán quy định công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH) hai thành viên trở lên phải có đủ các điều kiện: a) Có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp hoặc giấy chứng nhận đầu tư theo quy định của pháp luật; b) Có ít nhất ba kế toán viên hành nghề, trong đó tối thiểu phải có hai thành viên góp vốn; c) Người đại diện theo pháp luật, giám đốc hoặc tổng giám đốc phải là kế toán viên hành nghề; d) Bảo đảm vốn pháp định theo quy định của Chính phủ; đ) Phần vốn góp của người có chứng chỉ hành nghề kế toán phải chiếm trên 50% vốn điều lệ của doanh nghiệp; phần vốn góp của các thành viên là tổ chức không quá 35% vốn điều lệ của công ty.
Những điều kiện nêu trên là không cần thiết. Ban soạn thảo đã áp đặt những quy định đối với quản lý hoạt động kinh doanh của lĩnh vực kiểm toán độc lập cho dịch vụ kế toán. Trong khi đó, từ phạm vi hoạt động đến giá trị pháp lý của kết quả giữa dịch vụ kế toán và kiểm toán độc lập có sự khác nhau rất cơ bản.
Kiểm toán độc lập có báo cáo kiểm toán riêng và báo cáo này được sử dụng với nhiều mục đích như tham gia đấu thầu, vay vốn, liên doanh, liên kết, chia lợi nhuận... Ngược lại, các sổ sách kế toán và báo cáo tài chính do doanh nghiệp dịch vụ kế toán lập cho khách hàng, người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp khách hàng vẫn phải ký và chịu trách nhiệm trước pháp luật. Hơn nữa, các sổ kế toán và báo cáo tài chính này, trong phần lớn trường hợp, chỉ phục vụ mục đích kê khai, quyết toán thuế. Vì vậy, yêu cầu “có ít nhất ba kế toán viên hành nghề, trong đó tối thiểu phải có hai thành viên góp vốn” là quá mức cần thiết.
Điều kiện “người đại diện theo pháp luật, giám đốc hoặc tổng giám đốc công ty TNHH phải là kế toán viên hành nghề” cũng là điều kiện vô lý. Bởi người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm toàn diện về mọi hoạt động của doanh nghiệp nên phải có kinh nghiệm quản lý, kiến thức tương đối toàn diện. Không phải bất cứ ai có chứng chỉ hành nghề kế toán cũng có kinh nghiệm trong quản lý doanh nghiệp. Do đó, chỉ cần quy định giám đốc (hoặc tổng giám đốc) doanh nghiệp dịch vụ kế toán phải có chứng chỉ hành nghề kế toán và chỉ người có chứng chỉ hành nghề kế toán mới được ký hợp đồng dịch vụ kế toán là đủ.
Điều kiện “bảo đảm vốn pháp định theo quy định của Chính phủ” lại là một “sáng tạo” lạ đời! Bởi lẽ dịch vụ kế toán không đòi hỏi vốn lớn, cũng không phải là lĩnh vực kinh doanh nhạy cảm có thể phải bồi thường vật chất đến mức phải quy định vốn pháp định. Những rủi ro thường gặp trong dịch vụ kế toán đều có nguyên nhân từ sự không hợp pháp của chứng từ, tài liệu được sử dụng trong công tác kế toán. Song, các hợp đồng dịch vụ kế toán đều quy định về trách nhiệm của khách hàng là “chịu trách nhiệm trước pháp luật về sự hợp pháp của chứng từ, tài liệu kế toán được cung cấp để sử dụng trong công tác kế toán”. Do đó, những khoản mà doanh nghiệp dịch vụ kế toán phải bồi thường cho khách hàng (nếu có) thường chỉ là phạt vi phạm hành chính từ những lỗi kỹ thuật của kế toán viên.
Quy định “phần vốn góp của người có chứng chỉ hành nghề kế toán phải chiếm trên 50% vốn điều lệ của doanh nghiệp...” là không khả thi. Bởi lẽ dịch vụ kế toán là lĩnh vực “năng nhặt, chặt bị”, không phải cứ có chứng chỉ hành nghề là đã có tiền để góp vốn thành lập doanh nghiệp. Chẳng hạn một công ty TNHH có năm thành viên (trong đó, ba thành viên có chứng chỉ hành nghề kế toán) có vốn điều lệ 1 tỉ đồng, thì ba thành viên có chứng chỉ hành nghề phải góp ít nhất 505 triệu đồng. Rất ít người có đủ số tiền theo yêu cầu trên để góp vốn.
Đi ngược lại yêu cầu cải cách thủ tục hành chính
Theo quy định của Luật Kế toán hiện hành, doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ kế toán chỉ cần có hai người có chứng chỉ hành nghề và đăng ký hành nghề với Hội Kế toán - Kiểm toán Việt Nam (VAA). Song, theo dự thảo sửa đổi, doanh nghiệp phải xin cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ kế toán với quy định về hồ sơ gồm: 1. Đơn đề nghị cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ kế toán; 2. Bản sao giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp hoặc giấy chứng nhận đầu tư; 3. Bản sao giấy chứng nhận đăng ký hành nghề kế toán của các kế toán viên hành nghề; 4. Hợp đồng lao động làm toàn bộ thời gian của các kế toán viên hành nghề; 5. Tài liệu chứng minh về vốn góp đối với công ty TNHH; 6. Các giấy tờ khác do Bộ Tài chính quy định.
Như vậy, có hai giấy phép con xuất hiện là giấy chứng nhận đăng ký hành nghề kế toán của các kế toán viên hành nghề và giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ kế toán. Điều này đi ngược lại yêu cầu cải cách thủ tục hành chính.
Điều ngạc nhiên lớn nhất là những người đã đủ những tiêu chuẩn khá cao và có tới năm năm làm kế toán phải qua một kỳ thi quốc gia mới có thể lấy được “chứng chỉ hành nghề kế toán”. Bản thân chứng chỉ hành nghề đã là một “giấy phép con”, nhưng để được hành nghề lại phải xin cấp giấy chứng nhận hành nghề? Phải chăng giấy chứng nhận hành nghề có giá trị pháp lý cao hơn chứng chỉ hành nghề và có một “giấy phép con” mới chồng lên “giấy phép con” cũ?
Hơn nữa, trong cải cách thủ tục hành chính, để tạo điều kiện thuận lợi hơn cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, với những lĩnh vực kinh doanh có điều kiện, luật pháp cho phép có hai trường hợp: phải được cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh và được phép kinh doanh khi có đủ điều kiện. Dịch vụ kế toán ở trường hợp thứ hai đã thực hiện từ năm 2007 đến nay. Không biết vì lý do gì, Bộ Tài chính lại “nâng cấp” dịch vụ kế toán lên ngang tầm với kiểm toán độc lập và các ngân hàng, công ty chứng khoán? Và còn không biết “các giấy tờ khác do Bộ Tài chính quy định” sẽ là những giấy tờ gì nữa? Rất có thể khi luật đã cho phép, một thông tư của Bộ Tài chính sẽ “đẻ” thêm những thủ tục khác chỉ để... “hành” doanh nghiệp!
Nếu những quy định vô lý, thiếu tính khả thi như trên được thông qua, trong những năm tới sẽ có nhiều doanh nghiệp dịch vụ kế toán biến mất trên thị trường. Sự biến mất của các doanh nghiệp theo một trong hai cách. Thứ nhất là chấm dứt hoạt động kinh doanh dịch vụ kế toán vì chủ doanh nghiệp không đủ sức (cả về thời gian lẫn tiền bạc) để “xin” các giấy phép con. Thứ hai là không đăng ký hành nghề, không xin giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh nhưng vẫn vô tư kinh doanh dịch vụ kế toán. Chắc chắn sự “biến mất” theo cách thứ hai sẽ gia tăng. Bộ Tài chính có đủ lực lượng để kiểm tra xử phạt?

Thứ Bảy, 13 tháng 9, 2014

SFI lên kế hoạch thành lập Đầu tư Hạ tầng SAFI

(NDH) SFI vừa thông báo đã nhận 42 tỷ đồng lợi nhuận từ đối tác liên doanh Yusen Logistics. Đối tác này dự kiến kết thức liên doanh với SFI vào tháng 9/2014. Cùng ngày, HĐQT phê duyệt việc thành lập Công ty TNHH Đầu tư Hạ tầng SAFI, vốn điều lệ 6 tỷ đồng

SFI nhận 42 tỷ đồng từ đơn vị liên doanh, lên kế hoạch thành lập công ty con
Đầu tư Hạ tầng SAFI.

Công ty Cổ phần Đại lý Vận tải SAFI (mã SFI- HOSE) cho biết đă nhận lần 2 khoản lợi nhuận giữ lại từ liên doanh cùa Công ty TNHH Yusen Logistics Quốc tế (Việt Nam) với số tiền hơn 42,25 tỷ đồng vào ngày 25/8/2014.
Khoản lợi nhuận trên bao gồm lợi nhuận từ tháng 09/2004 đến tháng 03/2013 và lợi nhuận từ tháng 4/2013 đến nay. Được biết thêm rằng, thành lập Công ty TNHH Vận tài và Giao nhận Yusen (Việt Nam) dự kiến kết thức liên doanh với SFI vào tháng 9/2014.
Cũng trong ngày 26/8/2014, HĐQT của SFI đã thông qua phương án thành lập Công ty TNHH Đầu tư Hạ tầng SAFI có trụ sở tại Quận 1, Tp Hồ Chí Minh.
Vốn điều lệ của công ty là 6 tỷ đồng, thời gian góp vốn vào ngày 9/9/2014. Ông Nguyễn Hoàng Anh, Chủ tịch HĐQT của SFI sẽ là người đại diện phần vốn góp này tại Công ty TNHH Đầu tư Hạ tầng SAFI.
Theo báo cáo tài chính quý 2 và 6 tháng đầu năm 2014, doanh thu hợp nhất quý 02/2014 tăng gấp đôi do đổi hạch toán thu hộ khách hàng cước vận chuyển thành hạch toán doanh thu và giá vốn để phù hợp với qui định của cơ quan thuế đối với khách hàng. Tuy vậy, lợi nhuận sau thuế quý 02/2014 vẫn giảm hơn 3 tỷ đồng tương đương 33,18%. Lý do là bởi lợi nhuận từ liên doanh liên kết lỗ 0,6 tỷ, trong khi cùng kỳ năm trước lãi 3 tỳ.
Tổng Công ty Hàng hải Việt Nam (Vinalines) hiện đang nắm giữ 6,37% vốn điều lệ của SFI. Tuy nhiên, trong một thông báo mới đây, Vinalines cho biết đã đăng ký bán toàn bộ số cổ phiếu SFI đang nắm giữ nhằm tái cơ cấu nguồn vốn đầu tư. Giao dịch dự kiến được thực hiện từ 22/8 đến ngày 19/9/2014.
Thanh Thủy

Lufthansa dự định thành lập công ty hàng không giá rẻ

Lufthansa thành lập công ty hàng không

Tập đoàn hàng không Đức Lufthansa đang hướng tới việc thành lập công ty hàng không giá rẻ mới trực thuộc chi nhánh Eurowings đặt tại thành phố Dusseldort, miền Tây nước Đức.



Theo tuần báo Der Spiegel của Đức, chi nhánh Eurowings đang cung cấp dịch vụ tới các thành phố của châu Âu và Đức, nhất là với các hành trình ít sôi động.

Ông chủ của Lufthansa dự kiến sẽ mua thêm máy bay Airbus A320 để phát triển đội máy bay của hãng với mục đích tăng cường và mở rộng khai thác các đường bay từ Đức sang châu Âu.

Ngoài ra, hãng hàng không mới này có thể khai thác cả những hành trình tầm trung, như là giữa các thành phố London (Anh) và Rome (Italy); trực tiếp cạnh tranh với hai hãng hàng không giá rẻ quen thuộc tại châu Âu là Easyjet và Ryanair.

Do phải chịu cạnh tranh mạnh mẽ từ các hãng hàng không giá rẻ, từ tháng 1/2013, Lufthansa đã phải hạ giá vé trên các đường bay tại Đức và châu Âu với danh nghĩa của chi nhánh Germanwings nhằm lấy lại khách hàng.

Lãnh đạo Lufthansa cũng mong muốn trong tương lai có thể cung cấp những mức giá rất hấp dẫn đối với cả các chuyến bay tới châu Á.

Người phát ngôn của Lufthansa khẳng định "mọi lựa chọn đang được nghiên cứu để đảm bảo tương lai của chúng tôi."

Kế hoạch của Lufthansa được đưa ra sau khi có báo cáo đánh giá dự báo suy giảm kết quả kinh doanh của hãng trong các năm 2014, 2015. Lufthansa đang vừa phải cạnh tranh với các hãng hàng không giá rẻ, vừa phải đối mặt với các hãng hàng không vùng Vịnh và hãng hàng không Thổ Nhĩ Kỳ Turkish Airlines không chỉ với các hành trình nội châu Âu mà còn cả với các hành trình xuyên Đại Tây Dương

"Độc quyền" đăng công bố thông tin doanh nghiệp!

(TBKTSG - Online) - Nhiều doanh nghiệp tại TPHCM đang bức xúc với quy định bắt buộc đăng bố cáo thông tin thành lập doanh nghiệp hoặc thay đổi nội dung đăng ký kinh doanh, giải thể, thành lập doanh nghiệp,... chỉ duy nhất tại một kênh là Cổng thông tin đăng ký thành lập doanh nghiệp quốc gia (Cổng TT ĐKDNQG) với mức phí là 300.000 đồng/lần/doanh nghiệp.

"Độc quyền" đăng công bố thông tin doanh nghiệp!
Lê Hoàng
Hình trang web Cổng TT ĐKDNQG
Trước bức xúc này của doanh nghiệp, Thời báo Kinh tế Sài Gòn Online liên lạc với Sở Kế hoạch và Đầu tư TPHCM và được một Phó giám đốc của sở xác nhận là có quy định này và đã được sở áp dụng từ cuối năm 2013, chậm hơn so với hướng dẫn của Bộ Kế hoạch và Đầu tư là giữa tháng 4-2013 (pv).
Theo vị Phó giám đốc này, có ba cách để thành lập doanh nghiệp đăng bố cáo thông tin thành lập hoặc thay đổi nội dung đăng ký kinh doanh,... trên Cổng TT ĐKDNQG. Cách thứ nhất là trực tiếp tại Phòng Đăng ký kinh doanh cấp tỉnh mà cụ thể là tại Phòng Đăng ký kinh doanh của Sở Kế hoạch và Đầu tư TPHCM.
Trường hợp nếu không thông qua sở, doanh nghiệp cũng có thể đăng thông tin trực tiếp tại Trung tâm Hỗ trợ nghiệp vụ đăng ký kinh doanh thuộc Cục Quản lý đăng ký kinh doanh. Hoặc thông qua Cổng thông tin đăng ký doanh nghiệp quốc gia tại www.dangkykinhdoanh.gov.vn; doanh nghiệp cũng có thể đăng bố cáo thông tin.
Vị này cho rằng khoản phí 300.000 đồng/lượt đăng này của mỗi doanh nghiệp là quy định của Bộ Tài chính, Phòng đăng ký kinh doanh của sở chỉ làm với nhiệm vụ "thu hộ" cho Cục Quản lý đăng ký kinh doanh, không phải là nguồn thu của sở.
Và tất cả những quy định này được nêu tại Điều 8c Nghị định số 05/2012/NĐ-CP ngày 9/1/2013 và Thông tư 01/2013/TT-BKHĐT ngày 21-1-2013 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư hướng dẫn về đăng ký doanh nghiệp.
Sở Kế hoạch và Đầu tư TPHCM cũng cho rằng theo hướng dẫn tại Thông tư 01 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư thì Cổng TT ĐKDNQG hiện là kênh duy nhất để doanh nghiệp đăng bố cáo thông tin thành lập doanh nghiệp hoặc thay đổi nội dung đăng ký kinh doanh hiện nay, không có đăng ở những kênh khác như báo điện tử hoặc báo giấy như quy định trước đây.
Theo hướng dẫn của Sở Kế hoạch và Đầu tư, tại khoản 1, điều 55 của Thông tư 01 và tại Điều 8c, Nghị định số 05/2013/NĐ-CP có nêu rõ: "Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày thành lập hoặc đăng ký thay đổi nội dung đăng ký doanh nghiệp, doanh nghiệp phải đăng tải nội dung đăng ký doanh nghiệp trên Cổng thông tin đăng ký doanh nghiệp quốc gia theo quy định tại Điều 28 Luật Doanh nghiệp và tại Khoản 2 Điều 1 Nghị định số 05/2013/NĐ-CP".
Tuy nhiên, khi xem lại chính Điều 28 trong Luật Doanh nghiệp 2005 thì lại quy định: "Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, doanh nghiệp phải đăng trên mạng thông tin doanh nghiệp của cơ quan đăng ký kinh doanh hoặc một trong các loại báo viết hoặc báo điện tử trong ba số liên tiếp về các nội dung chủ yếu...".
Như vậy, Điều 28 lại quy định những doanh nghiệp thuộc diện nói trên thì được chọn một trong ba kênh thông tin để công bố nội dung đăng ký kinh doanh (gồm báo viết, báo điện tử và mạng thông tin doanh nghiệp của cơ quan đăng ký kinh doanh thuộc - Cổng TT ĐKDNQG).
Chính vì sự không thống nhất này mà các doanh nghiệp đã gặp rắc rối và chưa đồng tình với hướng dẫn của cơ quan cấp phép đăng ký kinh doanh ở địa phương. Nhiều ý kiến cho rằng quy định như hiện nay mang tính ép buộc và độc quyền kinh doanh của cơ quan quản lý .
Thực tế khi truy cập vào Cổng TT ĐKDNQG tại địa chỉ www.dangkykinhdoanh.gov.vn cho thấy, đây là trang thông tin nội bộ của Cục Đăng ký kinh doanh (Bộ Kế hoạch và Đầu tư). Việc yêu cầu đăng bố cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng là để nhiều người biết những thông tin quan trọng của doanh nghiệp thành lập, thay đổi đăng ký kinh doanh, giải thể hay phá sản... từ đó có thể phát hiện ra những điều bất ổn, tranh chấp hoặc tính thiếu minh bạch giúp cơ quan chức năng xử lý kịp thời những vấn đề có thể phát sinh. Nhưng nếu bắt buộc chỉ đăng duy nhất trên Cổng Thông tin nội bộ của Cục Đăng ký kinh doanh thì theo rất nhiều doanh nghiệp và nhà quản lý cho rằng chưa đủ. Và một khi rất ít người truy cập thì việc đăng bố cáo cũng hạn chế tác dụng.
Ở góc độ tài chính, nhiều doanh nghiệp cho rằng quy định thu phí 300.000 đồng/ lần khi đăng thông tin của doanh nghiệp trên Cổng TT ĐKDNQG cũng là mức không hề nhỏ bởi mỗi địa phương có hàng ngàn doanh nghiệp thành lập/tháng. Không những thế, quy định này áp dụng trên toàn quốc, trung bình mỗi tháng có tới cả chục ngàn doanh nghiệp mới ra đời, thay đổi chức năng kinh doanh, chuyển địa điểm... như vậy khoản thu về sẽ không hề nhỏ. Không ít doanh nghiệp phản ánh nếu đã bắt buộc đăng trên Cổng TT ĐKDNQG thì nhà nước nên hỗ trợ miễn phí cho doanh nghiệp, không nên thu tiền. Bởi vì nếu không ràng buộc và có nhiều lựa chọn, chắc chắn các doanh nghiệp sẽ tìm đến các cơ quan thông tin đại chúng, những tờ báo phổ biến, uy tín, có phạm vi phát hành rộng khắp toàn quốc để đăng thông tin và lưu giữ, tra cứu sau này.
Các doanh nghiệp kiến nghị đơn vị chủ quản cần xem xét lại những quy định tại Điều 28 là rất rõ ràng không ép buộc doanh nghiệp chỉ đăng hông tin của doanh nghiệp trên Cổng TT ĐKDNQG. Nếu không, vô hình trung đã tạo ra thế độc quyền, dễ nảy sinh lợi ích nhóm vì đã bắt ép doanh nghiệp phải mất một khoản phí vào một địa chỉ duy nhất thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
Cổng thông tin đăng ký doanh nghiệp quốc gia được xây dựng nhằm cung cấp cho cộng đồng một trang thông tin điện tử với đầy đủ các tính năng về đăng ký doanh nghiệp trực tuyến, kiểm tra tên doanh nghiệp, rà soát, hiệu đính thông tin đăng ký kinh doanh và các dịch vụ cung cấp thông tin doanh nghiệp và đăng bố cáo doanh nghiệp.
Theo đó, cộng đồng doanh nghiệp, các cơ quan nhà nước sẽ được tiếp cận với khối thông tin chính thống và cập nhật về tình trạng pháp lý của doanh nghiệp, góp phần nâng cao tính minh bạch của thị trường và phục vụ công tác hoạch định các chính sách kinh tế vĩ mô.
Bên cạnh đó, cổng thông tin sẽ là nơi tiếp nhận các phản hồi, kiến nghị, khiếu nại từ cộng đồng đối với công tác đăng ký doanh nghiệp trên phạm vi cả nước. Đây sẽ là kênh thông tin quan trọng để cơ quan quản lý nhà nước có thể lắng nghe ý kiến của người dân về công tác đăng ký doanh nghiệp tại địa phương, từ đó có những điều chỉnh chính sách và nội dung quản lý nhà nước cho phù hợp.
Theo Cục Quản lý đăng ký kinh doanh thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư

Thành lập doanh nghiệp mới: chỉ còn 6 ngày

Thành lập doanh nghiệp: chỉ còn 6 ngày

(PL) Nhằm cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, ngày 18-3, Chính phủ đã ban hành nghị quyết yêu cầu các Bộ, ngành, địa phương tập trung thực hiện nội dung sau:

Trong giai đoạn 2014-2015, phải tập trung đẩy mạnh cải cách hành chính, rút ngắn thời gian thành lập doanh nghiệp xuống còn tối đa là 6 ngày (quy định hiện hành là 10 ngày).
Cải cách quy trình, hồ sơ, thủ tục nộp thuế để rút ngắn thời gian thành lập doanh nghiệp phải tiêu tốn hoàn thành thủ tục nộp thuế đạt mức trung bình của các nước ASEAN-6 là 171 giờ/năm (hiện nay là 876 giờ).
Rút thời gian tiếp cận điện năng đối với DN, dự án đầu tư xuống còn tối đa 70 ngày; đơn giản hóa quy trình, hồ sơ, thủ tục xuất nhập khẩu và giảm thời gian thông quan hàng hóa cho DN với thời gian xuất khẩu và nhập khẩu trung bình lần lượt là 14 và 13 ngày (quy định hiện hành đều là 21 ngày).
Cũng theo nghị quyết 19/NQ-CP, Chính phủ quyết định rút ngắn thời gian giải quyết thủ tục phá sản DN xuống còn tối đa 30 tháng; minh bạch hóa, công khai hóa tình hình hoạt động, tài chính DN phù hợp thông lệ quốc tế.
Chính phủ cũng yêu cầu các đơn vị, địa phương tăng cường thanh tra, kiểm tra việc thực hiện thủ tục hành chính trong triển khai dự án đầu tư các cấp, xử lý nghiêm những cán bộ, công chức có hành vi nhũng nhiễu, gây cản trở cho tổ chức, cá nhân khi thi hành nhiệm vụ.
Tại "Diễn đàn thành lập doanh nghiệp phát triển bền vững Việt Nam 2014" vừa diễn ra ở Hà Nội, Phó thủ tướng Vũ Đức Đam cho biết "năm 2014 và những năm tới, Chính phủ sẽ có nhiều hành động cụ thể để cải thiện môi trường kinh doanh, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho DN tất cả các thành phần kinh tế phát triển”, và nghị quyết 19 có thể coi là bước khởi đầu thể hiện sự quyết tâm đó của Chính phủ.
Đ.LIÊN

 

Thứ Sáu, 12 tháng 9, 2014

Áp dụng một thủ tục thành lập doanh nghiệp

Áp dụng một thủ tục thành lập doanh nghiệp

(Baodautu) Xóa bỏ sự phân biệt giữa nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài trong thủ tục đăng ký thành lập doanh nghiệp, mua cổ phần, góp vốn là một trong những thay đổi căn bản trong Dự thảo Luật thành lập doanh nghiệp sửa đổi.

Theo đề xuất này, quy định về việc nhà đầu tư nước ngoài lần đầu tiên đầu tư vào Việt Nam phải thực hiện thủ tục riêng để có được giấy chứng nhận đầu tư đồng thời là giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh sẽ bị bãi bỏ.
Trao đổi với phóng viên Báo Đầu tư điện tử - baodautu.vn, ông Phan Đức Hiếu, thành viên Tổ Biên tập sửa đổi Luật Doanh nghiệp cho biết, mục tiêu của đề xuất này không chỉ tạo thuận lợi hơn cho hoạt động thành lập doanh nghiệp, nhất là đối với nhà đầu tư nước ngoài, mà còn phân tách rõ ràng hai nội dung trong gia nhập thị trường là hoạt động góp vốn, mua cổ phần và thương quyền của nhà đầu tư.
“Khi thiết kế thủ tục hành chính trong gia nhập thị trường sẽ được áp dụng thống nhất đối với mọi nhà đầu tư, còn thương quyền sẽ áp dụng theo cam kết, chúng tôi cũng xác định nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp khi các tiêu chí để hậu kiểm được quy định rõ ràng”, ông Hiếu phân tích.
Cũng phải nói thêm, trong Dự thảo Luật Doanh nghiệp sửa đổi, bên cạnh đề xuất đơn giản hóa yêu cầu hồ sơ đăng ký thành lập doanh nghiệp, như đơn giản yêu cầu về ghi ngành nghề đăng ký kinh doanh; đơn giản hóa nội dung giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp..., thì nội dung của giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp chỉ gồm tên, địa chỉ trụ sở chính, người đại diện theo pháp luật và vốn pháp định. Nghĩa là, cửa cho gia nhập thị trường sẽ thực sự đơn giản, thuận tiện. Tuy nhiên, ông Hiếu cho biết, đi cùng với đó là chế tài rõ ràng về trách nhiệm của nhà đầu tư.
“Đơn cử, quy định liên quan đến thời hạn góp đủ vốn sau khi đăng ký doanh nghiệp sẽ được thống nhất là 30 ngày đối với cả công ty cổ phần, cũng như công ty TNHH. Điều này sẽ giảm bớt tình trạng nhiều công ty TNHH không đảm bảo vốn thực theo cam kết khi thời gian cho phép góp vốn lên tới 3 năm, gây ra những hệ lụy pháp lý phức tạp”, ông Hiếu nói.
Đặc biệt, đề xuất thay đổi cách ghi ngành nghề trong giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp theo hướng chỉ ghi ngành nghề cấm kinh doanh, kinh doanh có điều kiện và nguyên tắc tuân thủ các điều kiện kinh doanh đang được cho là bước cải cách lớn trong tư duy quản lý nhà nước đối với quyền kinh doanh những gì pháp luật không cấm của doanh nghiệp.
Thực tế thực thi Luật Doanh nghiệp 2005 cho thấy, mặc dù quy định hiện hành buộc giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh phải kê đủ các ngành nghề mà nhà đầu tư muốn kinh doanh, song theo Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Đặng Huy Đông, mục tiêu quản lý nhà nước theo ngành nghề lại không đạt được.
“Có những giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh dài vài trang vì số lượng ngành nghề kinh doanh nhà đầu tư lựa chọn rất nhiều, nhưng không cơ quan nào nắm chắc doanh nghiệp đang kinh doanh những ngành nghề nào trong số đó. Hơn thế, với cách đăng ký ngành nghề kinh doanh hiện tại, doanh nghiệp lại gặp rủi ro khi không kịp bổ sung ngành nghề mới mà đã bắt tay vào kinh doanh”, ông Đông nói.
Việc thay đổi cách thức ghi ngành nghề sẽ buộc cả nhà đầu tư và cơ quan quản lý nhà nước có trách nhiệm thực thi các điều kiện kinh doanh một cách chủ động.
Tuy nhiên, đang có những quan điểm yêu cầu phải kiểm soát chặt chẽ việc thành lập doanh nghiệp, như phải có thẩm định về vốn, thẩm định về nhân thân, thẩm định về địa điểm… Lý do của các đề xuất này là nhằm giải quyết tình trạng vi phạm pháp luật của doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh, như lừa đảo, mua bán hóa đơn…
Tuy nhiên, Thứ trưởng Đặng Huy Đông cho rằng, nguyên nhân chính các vi phạm pháp luật của doanh nghiệp như nêu trên có là do yếu kém công tác quản lý nhà nước, theo dõi, giám sát và xử lý của cơ quan nhà nước có liên quan.
“Để giải quyết vấn đề đó, cần sự đổi mới về phương thức quản lý của cơ quan liên quan, chứ không vì thế mà hạn chế việc thành lập doanh nghiệp”, ông Đông nói và khẳng định, mục tiêu không sửa luật nếu vấn đề bất cập do yếu kém trong tổ chức thực hiện.
Khánh An

Phương pháp tính thuế GTGT với DN mới thành lập

Khi thành lập Doanh nghiệp và chi nhánh mới thành lập cần lưu ý một số vấn đề về phương pháp tính thuế giá trị gia tăng (GTGT), thời điểm áp dụng phương pháp khấu trừ, đăng ký tự nguyện áp dụng phương pháp khấu trừ thuế...




Phương pháp khấu trừ thuế được quy định chi tiết tại Thông tư 219/2013/TT-BTC (sau đây gọi tắt là Thông tư 219) về việc hướng dẫn thi hành Luật Thuế GTGT. Tuy nhiên trong quá trình triển khai thực hiện, nhiều doanh nghiệp thành lập đã gặp phải nhiều vướng mắc đối với quy định này, do đó Bộ Tài chính đã ban hành Công văn số 2616/TCT-CS (sau đây gọi tắt là Công văn 2616) hướng dẫn thành lập doanh nghiệp thực hiện các quy định về áp dụng phương pháp khấu trừ thuế. Cụ thể:Thứ nhất, về giá trị tài sản, máy móc, thiết bị đầu tư mua sắm, góp vốn của doanh nghiệp mới thành lập, doanh nghiệp mới thành lập được đăng ký tự nguyện áp dụng phương pháp khấu trừ thuế khi:
- Hóa đơn mua tài sản cố định, máy móc thiết bị có giá trị từ 1 tỷ đồng trở lên. Ngoài ra các hóa đơn sau vẫn được chấp nhận để tổng hợp vào tổng giá trị tài sản cố định, máy móc, thiết bị đầu tư, mua sắm: (1) hóa đơn mua đối với các tài sản là máy móc, thiết bị chưa đạt tiêu chuẩn là tài sản cố định; và (2) hóa đơn mua công cụ, dụng cụ;
- Doanh nghiệp mới thành lập nhận góp vốn bằng tài sản từ 1 tỷ đồng trở lên và đảm bảo được ghi nhận là tài sản của doanh nghiệp.
Thứ hai, về việc áp dụng phương pháp khấu trừ thuế đối với các chi nhánh. Theo quy định của Thông tư 219, chi nhánh được thành lập doanh nghiệp đang nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ sẽ được áp dụng phương pháp tính thuế như của doanh nghiệp đang hoạt động (trong trường hợp chi nhánh khai thuế GTGT tại cơ quản lý thuế trực tiếp của chi nhánh).
Tuy nhiên nếu chi nhánh không trực tiếp bán hàng, không phát sinh doanh thu thì phải khai thuế tập trung tại trụ sở chính của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, thành lập doanh nghiệp cần lưu ý quy định này cũng được áp dụng đối với chi nhánh được thành lập từ dự án đầu tư của doanh nghiệp.
Thứ ba, về việc đăng ký tự nguyện áp dụng phương pháp khấu trừ thuế, các doanh nghiệp cần lưu ý những trường hợp sau:
- Doanh nghiệp được thành lập từ dự án đầu tư trước ngày 01/01/2014, đang trong giai đoạn đầu tư và chưa có doanh thu thì tiếp tục áp dụng phương pháp khấu trừ thuế trong năm 2014.
- Doanh nghiệp mới thành lập từ ngày 01/01/2014, có thực hiện đầu tư theo dự án thì thuộc trường hợp đăng ký tự nguyện áp dụng phương pháp khấu trừ thuế.
- Doanh nghiệp thành lập từ ngày 01/01/2014 đến trước ngày 26/04/2014, có dự án đầu tư không thuộc đối tượng được cấp có thẩm quyền phê duyệt theo quy định pháp luật nhưng có phương án đầu tư được người có thẩm quyền của doanh nghiệp ra quyết định đầu tư phê duyệt, có mức đầu tư từ 1 tỷ đồng trở lên, chưa thông báo phát hành hóa đơn/chưa mua hóa đơn bán hàng, thì thuộc đối tượng đăng ký tự nguyện áp dụng phương pháp khấu trừ thuế.
Công ty Luật PLF

Hạn chế đầu tư vốn nhà nước

Hạn chế đầu tư vốn nhà nước để thành lập doanh nghiệp

Những điều chỉnh đáng chú ý về đầu tư vốn nhà nước vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp...

Theo nhận xét của một số vị đại biểu, phạm vi đầu tư vốn nhà nước để thành lập doanh nghiệp quy định tại điều 10 là quá rộng và chung chung.

Tại dự thảo mới nhất vừa gửi xin ý kiến đại biểu, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho biết Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp đã có nhiều chỉnh lý.

Trong đó có những điều chỉnh đáng chú ý về phạm vi đầu tư vốn nhà nước vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp.

Thảo luận nội dung này tại kỳ họp Quốc hội thứ 7, đa số ý kiến đề nghị dự thảo luật cần cụ thể hóa những ngành, lĩnh vực Nhà nước sẽ đầu tư vốn vào doanh nghiệp theo từng hình thức đầu tư cụ thể.

Mặt khác, theo nhận xét của một số vị đại biểu thì phạm vi đầu tư vốn nhà nước để thành lập doanh nghiệp quy định tại điều 10 là quá rộng và chung chung.

Cần xác định những ngành, lĩnh vực Nhà nước không tham gia hoặc tham gia ở mức độ nhất định, những lĩnh vực Nhà nước cần giữ vốn và đẩy nhanh những lĩnh vực cần thoái vốn nhà nước tại doanh nghiệp là góp ý cho dự thảo luật khi đó.

Ủy ban thường vụ Quốc hội cho biết, tiếp thu ý kiến đại biểu, dự thảo luật đã được chỉnh lý theo hướng hạn chế việc đầu tư vốn nhà nước để thành lập doanh nghiệp. Đồng thời phạm vi đầu tư bổ sung vốn điều lệ đối với doanh nghiệp đang hoạt động phải bảo đảm phù hợp với phạm vi đầu tư vốn nhà nước để thành lập doanh nghiệp.

Sau khi chỉnh lý, doanh nghiệp thuộc phạm vi đầu tư vốn nhà nước để thành lập (khoản 1 điều 10) vẫn giữ nguyên như dự thảo luật trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 7.

Gồm doanh nghiệp cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích thiết yếu cho xã hội; doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp trực tiếp phục vụ quốc phòng, an ninh; doanh nghiệp thuộc lĩnh vực độc quyền Nhà nước.

Doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao, đầu tư lớn, tạo động lực phát triển nhanh cho các ngành, lĩnh vực khác và toàn bộ nền kinh tế và doanh nghiệp phục vụ ổn định và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong từng thời kỳ cũng nằm trong phạm vi này.

Vẫn giao Chính phủ quy định chi tiết phạm vi đầu tư vốn để thành lập doanh nghiệp nói trên, song dự thảo luật có thêm yêu cầu Chính phủ báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, phê duyệt chủ trương thành lập doanh nghiệp phục vụ ổn định và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong từng thời kỳ.

Dự thảo luật mới nhất cũng đã bổ sung quy định việc đầu tư bổ sung vốn điều lệ chỉ áp dụng đối với doanh nghiệp thuộc phạm vi quy định tại khoản 1 điều 10 nói trên và thuộc một trong các trường hợp sau.

Trường hợp thứ nhất là doanh nghiệp đang hoạt động có hiệu quả nhưng vốn điều lệ không bảo đảm thực hiện nhiệm vụ, ngành, nghề kinh doanh chính của doanh nghiệp đã được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt.

Hai là doanh nghiệp trực tiếp phục vụ quốc phòng, an ninh nhưng vốn điều lệ không bảo đảm thực hiện nhiệm vụ Nhà nước giao.

Như vậy, doanh nghiệp cung ứng dịch vụ sản phẩm công ích đã không còn nằm ở trường hợp được bổ sung vốn điều lệ.

Ngoài các nội dung nói trên, dự thảo luật cũng chỉnh lý quy định về tiền lương, thưởng theo hướng việc xác định quỹ tiền lương phải tuân thủ quy định của pháp luật về lao động.

Tiền lương, tiền thưởng của người lao động phải gắn với hiệu quả sản xuất, kinh doanh, năng suất lao động, phù hợp với vị trí, chức danh công việc, trình độ chuyên môn kỹ thuật.

Riêng đối với quỹ tiền lương, tiền thưởng của người quản lý doanh nghiệp, ngoài hiệu quả sản xuất, kinh doanh còn phải gắn với tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ quản lý, điều hành của từng người quản lý doanh nghiệp.

 

Thứ Năm, 11 tháng 9, 2014

Những “giấy phép con”... kỳ lạ!

Từ năm 2004, khi Luật Kế toán có hiệu lực, dịch vụ kế toán trở thành lĩnh vực kinh doanh có điều kiện. Dự thảo Luật SĐBS Luật Kế toán được Bộ Tài chính hoàn thành quy định thêm những điều kiện khắt khe với DN kinh doanh dịch vụ kế toán.

Ảnh: vneconomy
Ví dụ, về đăng ký hành nghề dịch vụ kế toán, điều 55b dự thảo luật quy định: "1. Người có đủ các điều kiện được đăng ký hành nghề dịch vụ kế toán: Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ; Có phẩm chất đạo đức tốt, có ý thức trách nhiệm, liêm khiết, trung thực, khách quan; Có Chứng chỉ hành nghề dịch vụ kế toán theo quy định của Bộ Tài chính... 2. Người có đủ các điều kiện quy định tại khoản 1 thực hiện đăng ký hành nghề dịch vụ kế toán và được cấp Giấy chứng nhận đăng ký hành nghề dịch vụ kế toán theo quy định".
Về điều kiện cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ kế toán, khoản 1, điều 55d dự thảo luật quy định: "1. Cty TNHH 2 thành viên trở lên khi đề nghị cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ kế toán phải có đủ các điều kiện sau đây: Có Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, Giấy chứng nhận đăng ký DN hoặc Giấy chứng nhận đầu tư theo quy định của pháp luật; Có ít nhất 3 kế toán viên hành nghề, trong đó tối thiểu phải có 2 thành viên góp vốn; c) Người đại diện theo pháp luật, GĐ hoặc TGĐ phải là kế toán viên hành nghề; Phần vốn góp của những người có chứng chỉ hành nghề dịch vụ kế toán phải chiếm trên 50% vốn điều lệ của DN...".
"Giấy chứng nhận đăng ký hành nghề dịch vụ kế toán theo quy định của Bộ Tài chính" là một "giấy phép con" kỳ lạ. Bởi, một kế toán viên 5 năm công tác lại phải trải qua một kỳ thi quốc gia mới lấy được "chứng chỉ hành nghề kế toán", nhưng để được hành nghề lại phải xin " Giấy chứng nhận đăng ký hành nghề"!
Thứ hai, yêu cầu "Có ít nhất 3 kế toán viên hành nghề" là không khả thi. Từ năm 2005 đến nay, mỗi năm Bộ Tài chính chỉ tổ chức thi cấp Chứng chỉ hành nghề kế toán một lần và mỗi lần chỉ cấp được 25 -30 chứng chỉ. Như vậy, tổng số nguời được cấp Chứng chỉ hành nghề kế toán chỉ vào khoảng 300 người, như vậy, lấy đâu ra số nguời có chứng chỉ hành nghề cho đủ theo quy định?
Thứ ba, quy định "trong đó tối thiểu phải có 2 thành viên góp vốn" là quá mức cần thiết. Bởi, người có chứng chỉ hành nghề không bắt buộc phải góp vốn vào Cty, mà được phép làm việc theo hợp đồng lao động. Quy định đó sẽ gây khó khăn lớn cho việc thành lập DN dịch vụ kế toán khi không thể thuyết phục được người có chứng chỉ hành nghề tham gia góp vốn. Quy định "Người đại diện theo pháp luật, GĐ hoặc TGĐ phải là kế toán viên hành nghề" cũng vô lý. Không phải ai có "chứng chỉ hành nghề kế toán" là có kinh nghiệm quản lý DN. Dịch vụ kế toán không đòi hỏi vốn lớn, không phải lĩnh vực kinh doanh nhạy cảm có thể phải bồi thường vật chất đến mức phải quy định vốn pháp định. Quy định "Phần vốn góp của người có chứng chỉ hành nghề kế toán phải chiếm trên 50% vốn điều lệ của DN..." không khả thi.
Dịch vụ kế toán là lĩnh vực "năng nhặt, chặt bị", không phải cứ có chứng chỉ hành nghề kế toán là đã có tiền góp vốn thành lập DN. Điều quan trọng là quy định hệ thống với 8 giấy phép con... 82 DN dịch vụ kế toán đã đăng ký hành nghề với Hội Kế toán và Kiểm toán VN. Các DN dịch vụ kế toán hoạt động hợp pháp đã và đang phải cạnh tranh khốc liệt với lực lượng làm dịch vụ kế toán bất hợp pháp (không có chứng chỉ hành nghề, không đăng ký hành nghề), hoạt động dịch vụ kế toán của các Cty kiểm toán độc lập và các DN tư vấn thuế.
Với chức năng quản lý nhà nước, Bộ Tài chính cần hỗ trợ DN dịch vụ kế toán tồn tại và hoạt động, có những biện pháp nhằm hạn chế hoạt động của lực lượng "kế toán chạy sô", đơn giản hóa thủ tục hành chính, quản lý về chất lượng dịch vụ, thay vì đặt ra “giấy phép con” để “hành” DN!

Chuẩn bị thành lập Công ty Đường sắt Hà Nội

(HNMO) - UBND TP Hà Nội đang giao BQL đường sắt đô thị Hà Nội chỉ đạo tư vấn JICA, phối hợp với Sở Nội vụ, các sở ngành liên quan căn cứ ý kiến tham gia của các bộ, ngành để hoàn chỉnh hồ sơ thành lập Công ty Đường sắt Hà Nội trước ngày 15/9/2014.



Tiếp đó, UBND TP sẽ trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chủ trương thành lập Công ty theo quy định.

Dự kiến, trong giai đoạn đầu áp dụng mô hình và cơ cấu tổ chức một công ty quản lý tập trung. Trong tương lai, khi thành lập công ty tiếp nhận các tuyến đường sắt đô thị khác sẽ áp dụng mô hình công ty mẹ - con.
Tuyến Cát Linh - Hà Đông dự kiến đi vào hoạt động vào cuối năm 2015.

TP giao BQL đường sắt đô thị Hà Nội phối hợp với Sở Tài chính nghiên cứu, xác minh mức vốn điều lệ của công ty trên cơ sở tổng mức đầu tư của tuyến đường sắt đô thị số 2A (Cát Linh - Hà Đông).

Riêng về vấn đề tuyển dụng nhân sự cho tuyến đường sắt đô thị số 2A Cát Linh - Hà Đông, TP giao Sở Nội vụ trình và dự thảo Quyết định của UBND TP phê duyệt nhân sự tuyển dụng để đưa đi đào tạo lái tàu tại Trung Quốc. Sở Nội vụ đề xuất chế độ, chính sách theo hướng thu hút người lao động có tay nghề, chuyên môn cao; đảm bảo quyền lợi của người lao động khi trúng tuyển về lương, bảo hiểm xã hội và các quyền lợi theo quy định và thu hút được lao động; đảm bảo người được cử đi đào tạo phải cam kết sau đào tạo sẽ phục vụ công ty lâu dài.

Thứ Hai, 8 tháng 9, 2014

Đổi mới hệ thống kế toán, kiểm toán Việt Nam đáp ứng yêu cầu hội nhập

(Tài chính) Kế toán, kiểm toán được đánh giá là hoạt động nhạy cảm và đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế. Ứng phó với thách thức của hội nhập quốc tế sâu rộng, hệ thống kế toán, kiểm toán Việt Nam đã và đang đổi mới, xây dựng một hệ thống quản lý tài chính tiên tiến, phù hợp với thông lệ và chuẩn mực quốc tế.


Kế toán, kiểm toán được đánh giá là hoạt động nhạy cảm và đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế. Nguồn: internet
Phát triển cả về "lượng" và "chất"
Thực tiễn cho thấy, hệ thống chuẩn mực kế toán, kiểm toán quốc tế đã có nhiều đổi thay trong thời gian qua. Chuẩn mực kế toán, kiểm toán Việt Nam đến nay đã có sự điều chỉnh tương ứng nhằm phù hợp với bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng. Có thể nói, sau 20 năm hội nhập và phát triển, đến nay lĩnh vực này đã đạt được nhiều kết quả ấn tượng. Cụ thể:
- Về cơ chế chính sách: Hệ thống văn bản pháp lý về kế toán, kiểm toán Việt Nam đã được kiện toàn. Quốc hội, Chính phủ và Bộ Tài chính đã ban hành và cập nhật kịp thời hệ thống pháp luật, tạo hành lang pháp lý cho lĩnh vực kế toán, kiểm toán hoạt động: Luật Kiểm toán Nhà nước năm 2005, Luật Kiểm toán độc lập năm 2011, Luật Kế toán năm 2013 và nhiều văn bản dưới luật khác. Đặc biệt, Bộ Tài chính đã công bố 26 Chuẩn mực kế toán quốc tế, kể cả Chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp kế toán, kiểm toán. Đồng thời với đó, cuối năm 2012, Bộ Tài chính đã cập nhật và ban hành lại 37 Chuẩn mực kiểm toán (CMKiT) Việt Nam phù hợp với CMKiT của quốc tế…
- Các quy định về pháp lý cho hoạt động kế toán, kiểm toán đã được ban hành như: Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp, Luật Thương mại, Luật Thống kê, các Nghị định của Chính phủ về quy chế kiểm toán độc lập trong nền kinh tế quốc dân, thông tư và quyết định về tổ chức thi tuyển cấp bằng kiểm toán viên, quy định về đăng ký hành nghề kiểm toán… Tất cả tạo nền tảng cho thực hành công việc kế toán, lập báo cáo tài chính và thực hành kiểm tra, giám sát, kiểm toán báo cáo tài chính trong lĩnh vực doanh nghiệp cũng như Nhà nước và nâng cao độ tin cậy của nhà đầu tư và xã hội vào sự công khai, minh bạch của thị trường tài chính.
- Về ngun nhân lực: Đội ngũ những người hành nghề kế toán, kiểm toán đang ngày càng phát triển nhanh về cả lượng lẫn chất. Việt Nam đã tạo được mối quan hệ với các tổ chức quốc tế, là thành viên của Liên đoàn Kế toán Quốc tế (IFAC), Liên đoàn Kế toán các nước ASEAN (AFA). Nhiều tổ chức nghề nghiệp kế toán quốc tế lớn và đang có nhiều hoạt động tích cực tại Việt Nam như Hiệp hội kế toán công chứng Anh Quốc (ACCA), Hội kế toán công chứng Australia (CPA Australia) trong các lĩnh vực đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, tổ chức hội thảo chuyên ngành, cập nhật kiến thức cho những người làm Kế toán, Kiểm toán. Từ đó tạo lập được môi trường thông thoáng, bình đẳng và hội nhập với khu vực và thế giới.
- Về thực trạng và tình hình hoạt động: Nhờ có hành lang pháp lý khá hoàn thiện và nguồn nhân lực được đào tạo bài bản, hoạt động kiểm toán, kế toán của Việt Nam đã và đang phát triển mạnh mẽ, từ chỗ chỉ có 2 công ty với 13 nhân viên (năm 1991) đến nay con số này đã tăng lên hơn 160 công ty kiểm toán kiểm toán độc lập hoạt động dưới các hình thức công ty TNHH, công ty tư nhân, công ty liên doanh và công ty hợp danh. Các công ty này đã xây dựng được mạng lưới chi nhánh tại hầu hết các thành phố và các tỉnh trọng điểm trên khắp cả nước.
Theo số liệu của Hội Kiểm toán viên hành nghề Việt Nam (VACPA), hiện đang có 11.000 người tham gia làm việc trong lĩnh vực này, trong đó có 2.800 người đã được cấp chứng chỉ kiểm toán viên Việt Nam, 500 người đạt chứng chỉ kiểm toán viên quốc tế và mỗi năm cung ứng trên 20 loại hình dịch vụ cho 33.000 khách hàng… Sự phát triển cả về số lượng, chất lượng đã từng bước khẳng định vị trí hoạt động nghề nghiệp kế toán, kiểm toán Việt Nam trong khu vực và quốc tế.
Ngoài số lượng, quy mô của các hoạt động kế toán, kiểm toán cũng được quan tâm, đáp ứng yêu cầu tăng trưởng và ổn định kinh tế trong nước. Hiện các cơ quan chức năng cũng đã chú trọng tới việc phát triển dịch vụ kế toán, kiểm toán theo xu hướng phát triển của các nước trong khu vực và quốc tế, tạo dựng và mở rộng giao lưu nghề nghiệp. Việt Nam đã trở thành thành viên thứ 7 của Liên đoàn kế toán các nước ASEAN (AFA) và trở thành thành viên thứ 130 của Liên đoàn quốc tế (IFAC) - một tổ chức có quy mô toàn cầu của các tổ chức quốc gia về kế toán. Đặc biệt, kể từ sau khi gia nhập Tổ chức Thương mại Quốc tế (WTO), việt Nam đã cam kết không hạn chế, không ngoại trừ về dịch vụ kế toán - kiểm toán. Để được thành lập, hiện diện thương mại của doanh nghiệp nước ngoài, phải có ít nhất 05 người có chứng chỉ kiểm toán viên do Bộ Tài chính Việt Nam cấp và đã hành nghề ở Việt Nam trên một năm, không hạn chế đối xử quốc gia…
Trước đó, trong những cam kết ASEAN về dịch vụ hỗ trợ kinh doanh (phân ngành dịch vụ, kế toán, kiểm toán và tư vấn thuế), thời gian đầu, Việt Nam chỉ cho phép 06 công ty dịch vụ kế toán, kiểm toán nước ngoài hiện đang hoạt động tại Việt Nam cung cấp dịch vụ, không cho phép thành lập thêm công ty có vốn đầu tư nước ngoài. Các công ty kiểm toán 100% vốn nước ngoài trước hết chỉ được phép cung cấp dịch vụ cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và dự án do nước ngoài tài trợ vốn. Các cá nhân tham gia cung cấp dịch vụ kế toán, kiểm toán hoặc tư vấn tài chính phải đăng ký hành nghề tại một tổ chức kế toán, kiểm toán độc lập hoạt động hợp pháp tại Việt Nam, có chứng chỉ hành nghề kế toán, kiểm toán của Việt Nam (CPA) hoặc kiểm toán viên cấp quốc gia được Bộ Tài chính Việt Nam thừa nhận và đăng ký trong danh sách kiểm toán viên theo quy định của Bộ Tài chính.
Ngoài ra, thực hiện cam kết trong Hiệp định thương mại Việt - Mỹ (có hiệu lực năm 2001), Việt Nam đã mở cửa thị trường kế toán, kiểm toán cho liên doanh và doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài của Mỹ sau 03 năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực; Bỏ giới hạn phạm vi hoạt động của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sau 03 năm tiếp theo kể từ khi Hiệp định có hiệu lực. Sau 02 năm, các công ty Hoa Kỳ được phép kinh doanh trong các lĩnh vực bình đẳng như các doanh nghiệp kế toán, kiểm toán trong nước…
Bên cạnh những thuận lợi trên, trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng, hệ thống kế toán, kiểm toán Việt Nam sẽ còn tiếp tục đối mặt với nhiều khó khăn từ nhiều phía. Đó là hệ thống văn bản pháp luật về kế toán, kiểm toán còn thiếu, chưa đồng bộ, chưa thật sự phù hợp với thông lệ quốc tế; Chưa trở thành chuẩn mực kiểm tra, kiểm soát hoạt động của kinh tế thị trường.
Còn rất nhiều câu hỏi đặt ra từ thực tiễn yêu cầu cần có lời giải đáp, điển hình như việc tồn tại đồng thời chế độ kế toán doanh nghiệp và chuẩn mực kế toán có làm cản trở việc áp dụng chuẩn mực kế toán, làm mất đi tính linh hoạt của người làm kế toán hay không? Vai trò của ngành Thuế đối với hoạt động kế toán, kiểm toán trong bối cảnh mới như thế nào? Công tác đào tạo phải thay đổi như thế nào để đáp ứng sự thay đổi về hệ thống văn bản pháp lý về kế toán, kiểm toán?...
Hoạt động kiểm toán, kế toán của Việt Nam đã và đang phát triển mạnh mẽ, từ chỗ chỉ có 2 công ty với 13 nhân viên (năm 1991) đến nay con số này đã tăng lên hơn 160 công ty kiểm toán kiểm toán độc lập hoạt động dưới các hình thức công ty TNHH, công ty tư nhân, công ty liên doanh và công ty hợp danh. Các công ty này đã xây dựng được mạng lưới chi nhánh tại hầu hết các thành phố và các tỉnh trọng điểm trên khắp cả nước.
Một số đề xuất, kiến nghị
Từ những phân tích trên có thể thấy, hội nhập kinh tế với thế giới là xu hướng tất yếu, là đòi hỏi khách quan. Do đó, thời gian tới, Việt Nam cần phải đánh giá, phân tích tình hình hệ thống kế toán, kiểm toán, để từ đó có những lộ trình đổi mới thích hợp, đáp ứng với sự phát triển của nền kinh tế. Tiến trình hội nhập quốc tế của hệ thống kế toán, kiểm toán tại Việt Nam đòi hỏi nỗ lực từ nhiều phía Nhà nước, doanh nghiệp... Trong thời gian tới, các cơ quan chức năng liên quan cần tập trung chú ý vào một số nội dung trọng tâm cụ thể sau:
Thứ nhất, cần xây dựng bổ sung một số chuẩn mực kế toán phù hợp với thực tiễn Việt Nam và chuẩn mực kế toán quốc tế. Để thực hiện được điều này, các chuyên gia có kinh nghiệm đến từ Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước, các hội nghề nghiệp, các công ty dịch vụ kế toán, kiểm toán, các trường đại học… cần có sự phối hợp chặt chẽ và thường xuyên về mặt chuyên môn nhằm xây dựng nên một chuẩn mực kế toán, kiểm toán có chất lượng.
Hiện nay, thị trường tài chính Việt Nam đang có nhiều chuyển biến và phát sinh nhiều nghiệp vụ phức tạp nhưng các chuẩn mực hỗ trợ việc ghi nhận cho một số loại hình công cụ tài chính vẫn thiếu vắng. Đây là một minh chứng cho việc ban hành chuẩn mực kế toán hiện nay ở Việt Nam chưa theo kịp yêu cầu của thực tiễn. Do đó, yêu cầu trước mắt là cần thiết phải sớm ban hành các chuẩn mực còn thiếu so với nhu cầu thực tế, trong đó tiền đề là việc hợp tác quốc tế. Các cơ quan Nhà nước cần phải nỗ lực hợp tác quốc tế trong việc trao đổi kinh nghiệm, cập nhật kiến thức mới; Kết hợp chặt chẽ với cơ quan, tổ chức về kế toán, kiểm toán quốc tế. Đồng thời, cần phải học hỏi và tham khảo, chọn lọc thành tựu của các nước tiên tiến trong khu vực, để áp dụng phù hợp với môi trường và quy định tại Việt Nam.
Thứ hai, xây dựng cơ sở hạ tầng và nâng cao trình độ của những người tham gia hoạt động kế toán, kiểm toán: Nâng cao trình độ nguồn nhân lực kế toán, kiểm toán quốc gia là cơ sở để bảo đảm sự hiểu biết và giải thích đúng đắn cũng như sự áp dụng nhất quán các chuẩn mực. Bên cạnh đó, việc hoàn thiện các phần mềm kế toán, hỗ trợ các doanh nghiệp tiếp cận và sử dụng các giải pháp phần mềm cũng đóng một vai trò rất quan trọng trong thúc đẩy tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Đặc biệt, các trường đại học, các tổ chức, trung tâm trong nước và quốc tế đào tạo nguồn nhân lực kế toán, kiểm toán cần chủ động xây dựng chương trình đào tạo. Nhà trường phải nghiên cứu chương trình đào tạo phù hợp thực tiễn hành nghề; Xây dựng hệ thống chuẩn mực kế toán, kiểm toán Việt Nam; Tích cực trao đổi và tiếp thu kinh nghiệm từ các quốc gia có hệ thống kế toán phát triển cũng như các tổ chức ban hành chuẩn mực quốc tế; Thúc đẩy các nhóm nghiên cứu khoa học về những lĩnh vực kế toán, kiểm toán.
Chương trình đào tạo của nhà trường về lĩnh vực kế toán, kiểm toán cũng cần phải được đổi mới theo hướng trang bị kiến thức và kỹ năng cho học viên phù hợp với thực trạng Việt Nam và chuẩn bị hành trang cho hội nhập. Chương trình giảng dạy, tài liệu giảng dạy phải được thiết kế lại cho phù hợp và cập nhật thường xuyên các chuẩn mực kế toán ban hành. Không chỉ vậy, các trường đại học, cao đẳng và những nơi đào tạo chuyên ngành kế toán, kiểm toán… cần làm tốt vai trò cầu nối cho doanh nghiệp và phát huy tốt vai trò hướng dẫn cũng như thu thập các ý kiến đóng góp từ phía doanh nghiệp.
Thứ ba, hệ thống doanh nghiệp cần ủng hộ cũng như thể hiện sự thiện chí trong thực hiện các chuẩn mực kế toán, kiểm toán mới: Các giải pháp hội nhập quốc tế và hệ thống kế toán, kiểm toán của doanh nghiệp Việt Nam được xét theo sự phát triển của thị trường chứng khoán, thị trường tài chính, biến động của môi trường đầu tư kinh doanh của Việt Nam. Do vậy, doanh nghiệp cần ủng hộ tích cực những chuẩn mực mới. Trước hết, đó là nỗ lực đầu tư xây dựng một đội ngũ nhân viên kế toán và tài chính có năng lực; Xây dựng hệ thống công nghệ có đảm bảo xử lý và lưu trữ toàn bộ dữ liệu một cách đầy đủ, chính xác, đảm bảo tuân thủ các chuẩn mực kế toán áp dụng. Ngoài ra, trên cơ sở hành lang pháp lý sẵn có, chuẩn mực, chế độ kế toán, kiểm toán hiện hành, các doanh nghiệp phải tự xây dựng chính sách kế toán, kiểm toán riêng của mình. Đặc biệt, các doanh nghiệp cần có kế hoạch đào tạo, huấn luyện các nhân viên kế toán hiểu biết các chuẩn mực kế toán, kiểm toán và cập nhật các chế độ kế toán mới, các quy định về thuế hiện hành… Giải pháp này không chỉ giúp doanh nghiệp tuân thủ các quy định hiện hành mà còn giúp việc lập và trình bày báo cáo tài chính trung thực, khách quan hơn.
Thứ tư, tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực thi pháp luật, chuẩn mực, chế độ kế toán, kiểm toán và triệt để xử lý những sai phạm nhằm duy trì chất lượng của dịch vụ.
Thứ năm, đẩy mạnh sự phát triển của tổ chức nghề nghiệp kế toán, kiểm toán thành tổ chức nghề nghiệp chuyên nghiệp, độc lập và tự quản trên cơ sở chuyển giao, hỗ trợ cơ quan nhà nước trong việc phát triển và duy trì nghề nghiệp theo hướng xã hội hóa. Tạo môi trường cạnh tranh công bằng trong lĩnh vực kiểm toán, góp phần thúc đẩy sự phát triển lành mạnh của hoạt động kiểm toán.
Thứ sáu, tiếp tục mở rộng quan hệ hợp tác, nâng cao vị thế của hệ thống kế toán, kiểm toán Việt Nam trên trường quốc tế.

Theo BaoMoi.Com

Thứ Tư, 3 tháng 9, 2014

Thuê đầu số để cung cấp tin nhắn chứng khoán lừa

Lợi dụng tên tuổi của thành lập công ty chứng khoán có thị phần môi giới lớn nhất Việt Nam, một đơn vị vốn chuyên về dịch vụ kế toán đã thuê đầu số 6733 để cung cấp tin nhắn chứng khoán lừa với giá 15.000 đồng mỗi SMS.
Theo tìm hiểu của VnExpress.net, Công ty cổ phần tổ hợp giáo dục và truyền thông OTM (vốn chuyên về dịch vụ kế toán) đã thuê lại đầu số 6733 của một đơn vị khác để cung cấp dịch vụ tin nhắn chứng khoán. Ngay sau khi cung cấp dịch vụ một thời gian ngắn, OTM đã bị Công ty cổ phần chứng khoán Thăng Long tố cáo mạo danh họ khi cung cấp dịch vụ.
Đại diện của Công ty cổ phần đầu tư và dịch vụ Bưu điện (đơn vị sở hữu đầu số 6733) cho biết, công ty có thỏa thuận hợp tác với OTM để cung cấp dịch vụ tư vấn chứng khoán qua tin nhắn. Theo đó, OTM sẽ thuê lại đầu số 6733 để cung cấp dịch vụ với giá 15.000 đồng cho một tin nhắn và cam kết thực hiện theo đúng quy định của pháp luật. Tuy nhiên, trong thời gian thử nghiệm, phía OTM đã không tuân thủ quy định nên đã bị chấm dứt hợp tác.
Khi cung cấp dịch vụ tin nhắn tư vấn chứng khoán, Công ty OTM đã thêm
Khi cung cấp dịch vụ tin nhắn tư vấn chứng khoán, Công ty OTM đã thêm "hiệu ứng đặc biệt" từ Công ty chứng khoán Thăng Long. Ảnh chụp màn hình
Vị lãnh đạo của công ty sở hữu đầu số 6733 than thở, họ không thể kiểm soát được việc OTM quảng cáo mạo danh đơn vị khác để chèo kéo khách hàng. Ông này cũng cho biết, do OTM mới đưa thông tin lên website của mình, chưa quảng cáo rộng rãi trên nhiều phương tiện thông tin đại chúng nên mức độ ảnh hưởng chưa lớn.
Bình luận về việc OTM cung cấp tin nhắn chứng khoán mạo danh, giám đốc một doanh nghiệp dịch vụ nội dung trên mạng di động cho biết, tin nhắn loại 15.000 đồng chủ yếu dành cho games hoặc thuê bao cả tháng về một dịch vụ nào đó. Đối với dịch vụ một lần chỉ có vài thông tin dạng text thì phải có hiệu ứng đặc biệt mới có khả năng hút khách.
“Với chứng khoán, việc bỏ ra có 15.000 đồng mà có được mã cổ phiếu đầu tư đem lại lợi nhuận cao thì quá rẻ. Điều này cộng với thông tin về sự hợp tác của công ty chứng khoán có thị phần môi giới lớn nhất Việt Nam và một chuyên gia phân tích chứng khoán có uy tín sẽ giúp cho dịch vụ trở nên đáng tin hơn. Tuy nhiên, khi thông tin được cung cấp là không chính xác thì chẳng khác nào lừa khách hàng”, ông này bình luận về cách thức quảng bá mạo danh của Công ty OTM.
Tổng giám đốc một công ty tin nhắn lớn có trụ sở ở Hà Nội cho biết, vào thời điểm hiện tại, số lượng công ty cung cấp dịch vụ nội dung lên tới con số hàng nghìn và chủ yếu là thuê lại đầu số. Trong số này, có không ít thành lập công ty làm ăn chụp giật, làm ảnh hưởng xấu đến các đơn vị làm ăn chân chính. “Những công ty như vậy khi bị cắt hợp tác với đầu số này lại chuyển qua đầu số khác với một cái tên mới để hoạt động. Đó là một thực tế”, ông này cho biết.
Trao đổi với VnExpress.net, đại diện của Công ty chứng khoán Thăng Long cho biết, họ đang đợi kết quả điều tra của cơ quan chức năng liên quan đến việc mạo danh do Công ty OTM thực hiện. “Khi cơ quan chức năng có kết luận, chúng tôi sẽ công bố thông tin chính xác”, ông này cho biết.
Trong khi đó, sau một thời gian điều tra nội bộ, Công ty OTM cũng chưa đưa ra bất cứ thông tin phản hồi nào về sự việc nêu trên.
Hoàng Ly
Theo VnExpress.NET

Thách thức của thị trường bán lẻ Việt Nam

Sau ngày 11/1/2015, Nhà nước cho phép thành lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Điều này đồng nghĩa với việc các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam sẽ gặp nhiều thách thức, đặc biệt là sự cạnh tranh khốc liệt.
Theo cam kết Việt Nam gia nhập WTO, từ ngày 11/1/2010 đến trước ngày 11/1/2015, Việt Nam cho phép thành lập liên doanh để cung cấp dịch vụ liên quan đến sản xuất, trong đó nhà đầu tư nước ngoài được sở hữu đến 50% vốn điều lệ của liên doanh. Sau ngày 11/1/2015, Việt Nam cho phép thành lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Như vậy, lộ trình mở cửa cho các doanh nghiệp sản xuất, phân phối của nước ngoài vào Việt Nam theo cam kết WTO chỉ còn hơn một năm sẽ được hoàn thiện. Điều này đặt ra cho các nhà bán lẻ Việt Nam nhiều thách thức, cạnh tranh khốc liệt.
Khi các doanh nghiệp nước ngoài vào Việt Nam, thị trường dự báo sẽ còn phải chứng kiến nhiều sự “đổi ngôi” quyết liệt hơn. Điều cần làm với các doanh nghiệp là con mắt “nhìn xa trông rộng - chiến lược đúng đắn kịp thời” giải quyết bài toán “trường vốn, quản trị chuyên nghiệp, độ bao phủ mạng lưới” để tự khẳng định mình.
d
Mặc dù rời khỏi top 30 nước dẫn đầu thế giới về độ hấp dẫn kinh doanh bán lẻ cũng như bị ảnh hưởng mạnh vì kinh tế khó khăn, nhưng thị trường bán lẻ Việt Nam vẫn rất tiềm năng để các nhà đầu tư nước ngoài đến khai thác. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, tổng mức hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng trong năm 2012 đạt trên 2,32 triệu tỷ đồng, tăng 16% so với năm 2011. Do sức hấp dẫn trên thị trường bán lẻ Việt Nam vẫn còn nhiều, nên các nhà bán lẻ nước ngoài đang có mặt tại thị trường Việt Nam vẫn tiếp tục mở rộng hệ thống kinh doanh như: MetroCash & Carry (Đức), Family Mart, Ministop (Nhật), Lotte (Hàn Quốc)…
d
“Đối thủ” của các doanh nghiệp Việt Nam vẫn ngày càng lớn mạnh bất chấp kinh tế Việt Nam 2 năm qua liên tục suy giảm. Điều đó, càng đặt ra bài toán khó hơn cho các doanh nghiệp Việt Nam để có thể cân bằng “đối trọng” với các doanh nghiệp nước ngoài. Đặc biệt, sau ngày 11/1/2015, Việt Nam cho phép các doanh nghiệp thành lập với 100% vốn nước ngoài thì sức mạnh của họ lại càng khiến các doanh nghiệp Việt Nam không thể chủ quan.
Một “miếng bánh” màu mỡ trên thị trường bán lẻ, phải kể đến các doanh nghiệp trong ngành điện máy Việt Nam. Siêu thị điện máy Nguyễn Kim chọn việc xây dựng “nội lực” trước thông qua việc ổn định bộ máy, quản trị, năng lực vốn… Sau khi “đủ lông, đủ cánh”, doanh nghiệp này mới quyết định “bung” ra các điểm bán bao phủ nhiều tỉnh thành trên cả nước để đi trước trong việc khai thác nhu cầu, phát triển thị trường. Cho đến cuối năm 2012, Nguyễn Kim đã có đến 22 điểm bán trên cả nước, vượt xa nhiều siêu thị điện máy khác.
Ngoài ra, tại thị trường phía Bắc, Trần Anh, Topcare cũng có thể coi là đang đi con đường có nhiều điểm tương đồng với Nguyễn Kim - tập trung xây dựng “nội lực”. Bằng chứng là trong khi nhiều siêu thị điện máy khác như Pico, MediaMart… bất chấp kinh tế khó khăn năm 2011, 2012 vẫn mở thêm các điểm bán thì Trần Anh, Topcare lại “ìm lìm” nghe ngóng, chờ đợi và xoay chuyển tình thế, tránh đi “cơn bão” bất ổn kinh tế. Và khi “nội lực” đã đủ, các siêu thị này nhanh chóng xúc tiến việc mở rộng các điểm bán trong năm 2013. Trong đó, Trần Anh sẽ đạt tổng 10 điểm bán; Topcare ngoài 4 điểm bán đã có, cũng công bố quyết định khai trương thêm 2 điểm bán mới - một ở Minh Khai vào tháng 6 và một ở trung tâm thành phố Hà Nội vào tháng 7, diện tích mỗi điểm bán ít nhất sẽ là 1.500m2.
Mai Thương
Theo VnExpress.NET

Quy trình thành lập một doanh nghiệp

Quy trình thành lập doanh nghiệp

Quy trình để thành lập doanh nghiệp, bắt đầu từ khi chủ doanh nghiệp có ý tưởng, là gì, thưa ông? Có quy trình chuẩn nào không, hay quy trình này phụ thuộc những yếu tố nào? (Minh Phương)
Ông Nguyễn Cảnh Bình, Chủ tịch HĐQT, Giám đốc Công ty Alpha Books: Theo tôi, để thành lập doanh nghiệp, thường phải thông qua các quy trình sau:
- Có ý tưởng kinh doanh
- Trao đổi với bạn bè, người quen, tìm hiểu về thị trường… để hoàn thiện ý tưởng này bằng bản kế hoạch kinh doanh.
- Xác định và tìm kiếm nguồn vốn, tìm kiếm nhà đầu tư/người cùng hợp tác/đối tác/cổ đông; tìm kiếm nhân sự quan trọng.
- Tìm địa điểm, mặt bằng, công nghệ
- Triển khai kinh doanh (sản xuất hay thương mại…)
Tôi nghĩ rằng khâu chuẩn bị là quan trọng nhất, nếu bạn chưa chắc chắc và an tâm thì chưa nên khởi sự. Khâu chuẩn bị, từ khi có ý tưởng đến việc đăng ký thành lập doanh nghiệp (đối với việc lập công ty) hay việc thuê mặt bằng (đối với việc kinh doanh đơn giản như mở quán café…) thường kéo dài từ 3 đến 6 tháng. Bạn không nên quá vội vàng, hấp tấp. Nên chọn thời điểm thích hợp nhất cho công ty, ngành của mình để khởi sự. Thường thì ngành nào cũng có chu kỳ, có thời kỳ kinh doanh thịnh nhất, nói nôm na là vào vụ, như kiểu mùa đông thì không nên bán kem vậy. Hãy khởi sự trước “đỉnh” khoảng một vài tháng tùy thuộc quy mô doanh nghiệp. Nói chung, tôi thấy các doanh nghiệp hay chọn mùa xuân, sau Tết để khởi sự, đó là ý tưởng hay.
theo VnExpress.NET